Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ)

Chương 38 : Đại khai phá: Chiến đấu ngoài ý liệu (cuối tháng 1 năm 1633)

Người đăng: kimdao

Ngày đăng: 15:15 11-07-2025

.
Chương 38: Đại khai phá: Chiến đấu ngoài ý liệu (cuối tháng 1 năm 1633) Cuối tháng 1 năm 1633, giữa hè Uruguay vẫn mát mẻ, nhiệt độ không quá 25 độ, chỉ đủ làm người hơi toát mồ hôi. Lục quân đệ nhất doanh, trạm canh gác thứ nhất, 82 quan binh hành quân thành hai cánh trên đồi núi tây nam Đại Ngư Hồ. Hai bên và phía trước là đội kỵ binh do Thường Khai Thắng, trạm canh gác trưởng bộ binh, chỉ huy. Từ Vũ, trạm canh gác trưởng kỵ binh, dẫn đội. Phía sau là quân nhu. Nhờ buôn lậu phát triển (Chương 35-37), đàn ngựa Đông Ngạn tăng nhanh. Mục trường mới ở đông Đại Ngư Hồ nuôi hơn 120 chiến mã. Để huấn luyện kỵ binh, lục quân được ủy ban chấp thuận lập trạm canh gác kỵ binh thuộc đệ nhất doanh: ba bài, mỗi bài 11 người (1 bài trưởng, 10 lính), cộng thêm Từ Vũ và Leonid Fedorov (phó trạm canh gác, người Ukraine Kazak), tổng 35 người, 35 ngựa. Mỗi lính trang bị Súng lục M33, Súng M32-Ất, Gươm Chỉ huy M32, đầy đủ và hiện đại. Ngoài kỵ binh, đội còn có quân nhu (thử nghiệm): 26 người, 10 xe lớn, 24 ngựa kéo (có thể Kim Khoa Lôi), 1 Súng lục M33, 12 Súng M32-Giáp. Công binh: 16 người, 1 Súng lục M33, 8 Súng M32-Giáp, 16 sản, 16 rìu, 8 giằng co. Thêm 10 học viên lục quân (bộ, kỵ, công, pháo), tuổi teen, quan sát và vẽ bản đồ, không tham chiến. Tổng cộng, Thường Khai Thắng chỉ huy 169 người. Với hậu cần mạnh, đội tiến xa, vượt Đại Ngư Hồ, đi hai ngày về tây nam, nhưng chẳng gặp làng Taluá nào. Đồi núi bạt ngàn khiến Giang Chí Thanh, phó trạm canh gác kiêm tham mưu, phải liên tục kiểm tra bản đồ tay vẽ. Cẩn thận và sĩ diện, anh không muốn đội lạc đường vì mình. Thường Khai Thắng bực bội. Tuần trước, trạm canh gác thứ ba chiếm làng Taluá lớn ở tây bắc Đại Ngư Hồ, chỉ mất 1 người, bị thương nhẹ 3, bắt hơn 100 tù binh, được khen ngợi. Là trạm canh gác trưởng duy nhất đầy biên chế, tự xưng “lão tử đệ nhất”, Thường không chịu nổi. Lần này, anh dẫn đội lớn tìm tòi phía nam, nhưng hai ngày chẳng vớ được gì, mặt mũi khó giữ. “Đang ở đâu?” Thường Khai Thắng mở móc áo, cáu kỉnh hỏi. Giang Chí Thanh lật bản đồ, cân nhắc: “Chắc ở đồi núi cách hồ Alegrete 10 km, giữa đường ven biển, hướng tây nam, cách biển không quá 3 km.” “Chắc? Không quá? Tham mưu mà nói vậy à? Lão Giang, sao không bỏ cái tật nhát gan đó đi!” Thường trừng mắt. Giang cười gượng. “Hồ Alegrete? Xa thế cơ à,” Thường lẩm bẩm, ra lệnh: “Nghỉ nửa giờ, rồi rút. Mẹ kiếp, không chơi trốn tìm với lũ Taluá! Kỵ binh cảnh giới, đây là khu đội bắt nô Bồ Đào Nha và buôn lậu hay qua lại, cẩn thận!” Lính hành quân mệt, lấy thịt bò muối, đậu nành, nước sôi để nguội, vừa ăn vừa tán gẫu. Quân nhu dỡ nước, thực phẩm từ xe, học viên hỗ trợ. Nghỉ 20 phút, một tiếng sấm vang trời. Thường ngẩng lên, trời quang vạn dặm. “Sấm cái gì? Pháo chứ!” Anh và Giang nhìn nhau, kinh ngạc. Kỵ binh phi tới, dẫn đầu là Tiếu Bạch Đồ, thiếu úy, bài trưởng kỵ binh thứ nhất. Anh xuống ngựa, chào kiểu lục quân: “Báo cáo! Kỵ binh thứ hai phát hiện đội bắt nô Bồ Đào Nha và hai thương đội buôn lậu giao chiến với Tây Ban Nha ở đường ven biển tây nam. Bồ Đào Nha bất lợi, chạy về hướng ta, cách 15 phút. Trên biển có thuyền buồm Tây Ban Nha treo cờ vương quốc. Hết!” Thường nổi nóng, đẩy Tiếu: “Từ Vũ đâu? Mẹ nó, giờ mới phát hiện cách 15 phút? Rút cũng không kịp! Về lột da nó! Thiếu úy, biết rồi, tìm Từ Vũ, tập hợp kỵ binh. Còn lại, cả đội! Trốn không được thì đánh! Lão tử muốn xem uy phong Tây Ban Nha!” Mười phút sau, Thường dẫn bộ binh thứ nhất, xếp đội hình chiến đấu sau đồi thấp. Trận đánh gần kết thúc. Bồ Đào Nha chạy tán loạn, Tây Ban Nha chia đội truy kích. “Xếp súng… nạp đạn!” Thường rút Gươm Chỉ huy M32, hơi run, ra lệnh. Tiếng súng xếp, nạp đạn rộn ràng. Giang Chí Thanh nhìn Thường, muốn nói gì nhưng im lặng. Bộ binh thứ nhất xếp năm hàng, mỗi bài một đơn vị, đạn nạp xong, Súng M32-Ất sẵn sàng bắn. Tây Ban Nha tiến gần, quân phục lòe loẹt lộ hoa văn. Các bài trưởng ngoái nhìn Thường, nhưng anh vẫn bất động, chống gươm. Gió nhẹ mang mùi thuốc súng và máu. Mồ hôi Thường chảy xuống, nhỏ giọt trên quân phục xanh biển. Tây Ban Nha đây! Thường không liều lĩnh. Dù thường ngày bỗ bã, anh biết Tây Ban Nha 1633 vẫn là gã khổng lồ, dù suy yếu. Ủy ban cấm khiêu khích họ. Anh xếp trận đề phòng, không dám nổ súng trước, sợ gánh hậu quả. Bồ Đào Nha chạy qua dốc, bỗng thấy đội quân xanh biển, đội mũ kê-pi, cầm Súng M32-Ất, đeo Gươm Chỉ huy M32, xếp hàng im lặng. Quen buôn bán ở TartarPort, họ biết đây là quân Đông Ngạn, vội tránh, vòng qua hai bên. Thường không cản, chỉ ra lệnh bài thứ nhất giơ súng. Anh căng thẳng theo dõi đội Tây Ban Nha truy kích. Tây Ban Nha hăng máu, bỗng thấy quân lạ. Quan chỉ huy hoảng hốt, chưa kịp phản ứng, một lính Tây Ban Nha, có lẽ vì căng thẳng, bắn về phía Đông Ngạn. Một lính bài thứ nhất gục xuống. Thường, theo phản xạ, hét: “Năm bài tề bắn! Sẵn sàng… Bắn!” “Pằng pằng pằng…” Bài thứ nhất, 15 Súng M32-Ất, bắn một loạt. Họ nạp đạn tại chỗ, bài thứ hai tiến lên, giơ súng, bắn… Sau năm loạt, khói súng mịt mù, hơn 20 lính Tây Ban Nha ngã gục. Bên đồi, kỵ binh thấy khai hỏa, Từ Vũ không do dự. 35 kỵ binh hét “Vạn thắng!”, bắn một loạt Súng lục M33, rút Gươm Chỉ huy M32, xông vào đội hơn 20 lính Tây Ban Nha. Quân địch rối loạn, chạy tán loạn, kêu cứu. Thường thở dài, sự đã rồi. “Đánh thì đánh, sợ cái gì!” Thấy Tây Ban Nha phân tán, khó tập hợp, anh dẫn 81 lính bộ binh thứ nhất, xếp đội hình, bắn từng nhóm lính Tây Ban Nha. “Loạt một, trái nửa vòng, sẵn sàng… Bắn!” “Bài hai, phải tiến nhanh, cả bài tề bắn, sẵn sàng… Bắn!” “Loạt ba, phải tề bắn, sẵn sàng… Bắn!” Súng M32-Ất vượt trội: nhẹ, giật ít, bắn nhanh, tầm xa, hơn hẳn Hỏa Thằng Thương Tây Ban Nha. Gặp đội nhỏ địch, Đông Ngạn bắn từ ngoài tầm Hỏa Thằng Thương, đánh Tây Ban Nha không đứng vững, chỉ biết chạy. Kỵ binh chém ngã kẻ chạy trốn. Nửa giờ sau, hơn 100 lính Tây Ban Nha chết hoặc bị thương. 50 người còn lại, bị kỵ binh chặn đường rút về biển, đối mặt bộ binh thứ nhất giơ súng, đành đầu hàng. Thuyền Tây Ban Nha trên biển thấy thua, sợ Đông Ngạn cướp thuyền nhỏ, bắn vài phát pháo lên bờ, tạo chục hố bom, rồi rút. Thường ra lệnh học viên, công binh, quân nhu tịch thu vũ khí Tây Ban Nha, trói 56 tù binh bằng dây thừng. Kỵ binh tuần tra, báo về: bốn người chết, đều là Kazak. Bộ binh thứ nhất mất ba người, không ai bị thương. Chiến trường có ít nhất 60 xác Tây Ban Nha, hơn 20 chết do loạt bắn đầu, 40 bị bắn hoặc chém khi chạy. Thường Khai Thắng, Giang Chí Thanh, Từ Vũ nhìn nhau. Lần này, có lẽ chơi lớn rồi.
Hãy nhấn like ở mỗi chương để ủng hộ tinh thần các dịch giả bạn nhé!
.
 
Trở lên đầu trang